Bệnh tiêu hoá
02/05/2023
Áp xe gan do amip (còn được gọi là áp xe gan do nhiễm khuẩn) là tình trạng gan bị viêm do nhiễm khuẩn bởi vi khuẩn Amip. Vi khuẩn này thường được tìm thấy trong môi trường nước và đất và có thể xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hóa.
Amip là gì? Áp xe gan do amip có nguy hiểm không
Amip là loại nguyên sinh vật (protozeaire) thuộc họ Entamoeba. Ở người có 4 loại: Entamoeba, Endolima, Pseudolima và Dientamoeba. Chỉ có loại E.histolytica còn gọi là E. hoạt động là gây bệnh. Thể E.minuta sống cộng sinh không gây bệnh trong đại tràng và dạng kén gây lây lan bệnh.
Sau khi cơ thể nhiễm amip, bệnh gây ra các tổn thương đặc trưng là loét ở niêm mạc đại tràng, bệnh có xu hướng kéo dài và mạn tính nếu không được điều trị tích cực. Thương tổn mạch máu ở đại tràng giúp amip theo tĩnh mạch vào tuần hoàn cửa hoặc hệ bạch mạch đến gan, ở đây chúng thường bị chặn lại bởi các xoang tĩnh mạch gây ra hoại tử ướt để thành lập các ổ áp xe gan.
Áp xe gan do Amip (Amoebic liver abscess) là tình trạng nhiễm trùng nặng được gây ra bởi Entamoeba histolytica - 1 thể hoạt động của Amip. Khuẩn Amip xâm nhập vào thành ruột, làm tổn thương thành mạch, di chuyển qua tĩnh mạch cửa để đến gan. Bắt đầu khu trú tại đây, hoạt động mạnh mẽ, ăn hết hồng cầu và sản sinh độc tố phá hủy các tế bào mô gan khỏe mạnh, hậu quả là hình thành các ổ áp xe.
Áp xe gan amip là sự hình thành ổ mủ trong tổ chức nhu mô gan, ổ mủ có thể to hoặc nhỏ, đơn độc hay nhiều ổ mủ khác nhau do amip gây ra. Amip ở người có 4 loại, nhưng trong đó chỉ có một loài Entamoeba histolytica hoạt động là gây bệnh.
Bệnh áp xe gan do amip
Trong điều kiện bình thường, amip sống hội sinh ở đại tràng. Khi sức đề kháng của cơ thể giảm và thành ruột bị tổn thương, men của amíp tiết ra gây ra các vết loét ở niêm mạc và tạo nên các ổ áp-xe nhỏ ở thành đại tràng, làm tổn thương thành mạch, amíp chui vào các mao tĩnh mạch vào tĩnh mạch mạc treo tràng trên rồi theo hệ thống tĩnh mạch cửa về gan. Do lưu lượng máu của tĩnh mạch cửa phần lớn đổ vào gan phải nên trên 80% áp-xe gan do amip gặp ở gan phải. Ngoài ra, amíp có thể lên gan theo đường bạch mạch hay di chuyển trực tiếp (amip chui ra ngoài thành ruột vào ổ bụng rồi bị hút lên vòm gan và chui qua vỏ Glisson vào tổ chức gan.
- Vỡ ổ áp xe vào khoang màng phổi: biểu hiện lâm sàng bệnh nhân xuất hiện đau ngực tăng, ho, sốt. Khi thăm khám bác sỹ có thể phát hiện thấy hội chứng ba giảm rõ, thường ở bên phổi phải. Các trường hợp này cần được xử trí khẩn trương dẫn lưu mủ màng phổi để điều trị và tránh nguy cơ biến chứng dày dính màng phổi.
- Vỡ vào phổi: Ổ áp xe vỡ vào nhu mô phổi, nếu thông với nhánh phế quản thì bệnh nhân có biểu hiện khạc ra mủ màu sô-cô-la, đây là một hình thức dẫn lưu cho ổ áp xe. Tuy nhiên, nếu không chăm sóc và hướng dẫn bệnh nhân dẫn lưu theo tư thế đúng cách có thể sẽ trở thành yếu tố thuận lợi cho bội nhiễm vi khuẩn gây viêm phổi hoặc áp xe phổi.
- Vỡ vào khoang màng tim: thường gặp ở các bệnh nhân có ổ áp xe gan trái. Trên lâm sàng bệnh nhân biểu hiện khó thở, tím tái, đau ngực liên tục. Khi thăm khám, bác sỹ có thể phát hiện các dấu hiệu của tràn dịch màng ngoài tim tùy theo mức độ tràn dịch: khi lượng dịch ít, có thể chỉ nghe thấy tiếng cọ màng ngoài tim.
- ổ áp xe vỡ vào ổ bụng gây viêm phúc mạc toàn thể: đây là biến chứng khá thường gặp. Trên lâm sàng bệnh nhân có biểu hiện đau bụng dữ dội đột ngột, đau tăng lan ra khắp bụng, sốt tăng, biểu hiện nhiễm trùng nhiễm độc. Khi thăm khám, bác sỹ có thể gặp các dấu hiệu như: bụng chướng, tăng cảm giác đau toàn bụng, đau nhiều ở vị trí hạ sườn phải, có dấu hiệu cảm ứng phúc mạc, có thể có liệt ruột gây bí trung đại tiện và chướng bụng. Siêu âm có hình ảnh dịch ổ bụng, tính chất âm của dịch không trong.
- Áp xe dưới hoành: Ổ áp xe vỡ ra được các dây chằng của gan và vòm hoành khu trú ổ mủ lại, thành ổ áp xe dưới vòm hoành. Trên lâm sàng có thể gặp bệnh nhân có ổ áp xe dưới cơ hoành với biểu hiện kích thích cơ hoành như: nấc, ho khan, đau ngực tăng lên khi ho, hít thở sâu; kèm theo có các biểu hiện của nhiễm trùng dai dẳng; trên hình ảnh X-quang ngực có hình ảnh vòm hoành bị nâng cao, thường là vòm hoành bên phải. Siêu âm ổ bụng, cắt lớp vi tính ổ bụng, thấy rõ vị trí và tính chất ổ áp xe. Ngoài ra, phim cắt lớp vi tính ổ bụng còn giúp định hướng phương pháp can thiệp dẫn lưu ổ áp xe điều trị.
Loại amip này gây bệnh qua đường phân miệng, khi một người nhiễm amip sẽ gây ra bệnh lý tại đại tràng. Sau đó tại đại tràng chúng sẽ thải ra kén amip theo phân, kén này có thể tồn tại 10-15 ngày. Kén không bị tiêu hủy bởi thuốc tím và clo, với formol 0 5% sau 30 phút kén mới chết.
Hình ảnh vi khuẩn amip
Người bị nhiễm amip khi ăn hay uống phải những thức ăn có chứa kén amip, sau đó kén tới đại tràng sinh sôi phát triển tại đó gây ra bệnh viêm đại tràng do amip hoặc có những người bị nhiễm thể không triệu chứng. Sau đó, vì một thương tổn tại niêm mạc đại tràng mà amip có thể vào tuần hoàn tĩnh mạch cửa hoặc bạch mạch tới gan gây ra những ổ áp xe gan. Đôi khi chúng có thể vào tuần hoàn chung gây ra áp xe phổi, não hay lách, tuy nhiên khám hiếm thấy.
Hay gặp nhất chiếm khoảng 60-70% trường hợp. Biểu hiện chủ yếu là tam chứng Fontam ( sốt, đau hạ sườn phải, gan to ) cụ thể:
- Sốt: có thể 39 - 400C, có thể sốt nhẹ 37.5 - 380C. Thường sốt 3 - 4 ngày trước khi đau hạ sườn phải và gan to nhưng cũng có thể xảy ra đồng thời với 2 triệu chứng đó.
- Đau hạ sườn phải và vùng gan: đau mức độ cảm giác tức nặng nhoi nhói từng lúc, đau mức độ nặng, đau khó chịu không dám cử động mạnh. Đau hạ sườn phải xuyên lên vai phải, khi ho đau tăng.Đau triền miên kéo dài suốt ngày đêm.
- Gan to và đau: gan to không nhiều 3-4 cm dưới sườn phải mềm, nhẵn, bờ tù, ấn đau. Làm nghiệm pháp rung gan (+)
Ngoài ra có thể gặp một số triệu chứng khác ít gặp hơn:
- Rối loạn tiêu hoá: ỉa lỏng hoặc ỉa nhày máu giống lỵ, xảy ra đồng thời với sốt trước hoặc sau sốt vài ba ngày.
- Mệt mỏi, gầy sút nhanh làm cho chẩn đoán nhầm là ung thư gan.
Cơ thể mệt mỏi, gầy và sút cân nhanh
- Có thể có phù nhẹ ở mu chân (cắt nghĩa dấu hiệu này: do nung mủ kéo dài dẫn đến hạ Protein máu gây phù).
- Cổ trướng: Đi đôi với phù hậu quả của suy dinh dưỡng, không có tuần hoàn bàng hệ.
- Tràn dịch màng phổi: thường do áp xe vỡ ở mặt trên gan gần sát cơ hoành gây phản ứng viêm do tiếp cận, do đó tràn dịch không nhiều thuộc loại dịch tiết, dễ nhầm lẫn với các bệnh ở phổi.
- Lách to: rất hiếm gặp, lách to ít l - 2cm dưới bờ sườn trái dễ nhầm với xơ gan khoảng cửa.
Biểu hiện theo thể lâm sàng:
- Thể không sốt: không sốt hoặc sốt rất ít một ba ngày rồi hết hẳn làm cho bệnh nhân không để ý, chỉ thấy đau hạ sườn phải, gầy sút cân... thể này gặp 9,3%.
- Thể sốt kéo dài: sốt hàng tháng trở lên liên tục hoặc ngắt quãng, gan không to thậm chí cũng không đau gặp 5%.
- Thể vàng da: chiếm 3% do khối áp xe đè vào đường mật chính.Thể này bao giờ cũng nặng, dễ nhầm với áp xe đường mật hoặc ung thư gan, ung thư đường mật.
- Thể không đau: gan to nhưng không đau, do ổ áp xe ở sâu hoặc ổ áp xe nhỏ, thể này chiếm khoảng l,9%.
- Thể suy gan: do ổ áp xe quá to phá huỷ 50% tổ chức gan, ngoài phù cổ trướng thăm dò chức năng gan bị rối loạn, người bệnh có thể chết vì hôn mê gan.
- Thể theo kích thước của gan: gan không quá to do ổ áp xe nhỏ, nhưng ngược lại gan quá to ( to quá rốn ) to có khi tới hố chậu.
- Thể áp xe gan trái: rất ít gặp, chiếm khoảng 3 -5% trường hợp, chẩn đoán khó, dễ vỡ vào màng tim gây tràn mủ màng tim.
- Thể phổi màng phổi: viêm nhiễm ở gan lan lên gây phản ứng màng phổi, hay do vỡ ổ áp xe lan lên phổi. Triệu chứng lâm sàng phần lớn là triệu chứng ở phổi (ho, đau ngực, khạc đờm) và triệu chứng màng phổi là chủ yếu, triệu chứng về áp xe gan không có hoặc lu mờ.Thể này chẩn đoán rất khó, thường nhầm với bệnh của phổi màng phổi.
- Thể có tràn dịch màng ngoài tim: từ đầu khi thành lập ổ áp xe ở gan đã có biến chứng vào màng ngoài tim, triệu chứng về bệnh tim nổi bật, còn triệu chứng về áp xe gan bị che lấp đi. Thể này thường chẩn đoán nhầm là tràn dịch màng ngoài tim.
- Thể giả ung thư gan: gan cũng to và cứng như ung thư gan, hoặc cũng gầy nhanh. Thể này gặp tỷ lệ 15 -16% trường hợp.
Lâm sàng:
Cận lâm sàng:
- Xét nghiệm: Tình trạng viêm: bạch cầu máu tăng, máu lắng tăng, CRP tăng
Xét nghiệm bạch cầu máu
- Kháng thể Amip dương tính bằng phản ứng ELISA, hiệu giá > 1/200: phần lớn bệnh nhân áp xe gan amip ( khoảng 99%) có kháng thể kháng amip; tuy nhiên kết quả xét nghiệm có thể âm tính trong vòng 7 ngày đầu. Ở các vùng dịch tễ của amip, khoảng 35% các trường hợp không nhiễm bệnh do amip cũng có kháng thể kháng amip do tiền sử tiếp xúc với amip trước đó. Do vậy, nếu xét nghiệm kháng thể amip âm tính cho phép loại trừ chẩn đoán nhiễm amip; tuy nhiên, nếu kết quả xét nghiệm dương tính thì cũng không khẳng định được là đang nhiễm amip hay có tiền sử tiếp xúc với amip trước đó.
Chẩn đoán hình ảnh:
Điều trị áp xe gan amip là một điều trị nội ngoại khoa hoặc kết hợp với thủ thuật thuật chọc hút có hướng dẫn siêu âm hoặc CT scanner. Kết quả điều trị phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tình trạng chung của bệnh nhân, giai đoạn phát triển và chẩn đoán bệnh, tình trạng tổn thương gan giai đoạn viêm, áp xe giai đoạn sớm, kích thước còn nhỏ (< 6cm), chưa hóa mủ hết, số lượng, kích thước và vị trí của các ổ áp xe.
Ngày nay 3 biện pháp phối hợp để điều trị áp xe gan do amip đó là:
- Thuốc đặc trị amip:
Thuốc diệt amip Metronidazole
- Loại bỏ ổ mủ khi nó đã hình thành: Loại bỏ ổ mủ khi đã hình thành bằng chọc hút mủ ổ áp xe gan Amip với thuốc diệt Amip trong các trường hợp:
- Phẫu thuật kết hợp với dùng thuốc diệt Amip: Mổ áp xe gan chỉ định ngày càng thu hẹp, chỉ giới hạn trong một số trường hợp sau:
- Lây qua đường tiêu hoá: người mắc bệnh amip do ăn phải vi khuẩn này khi ăn thức ăn hay uống nước bị nhiễm khuẩn hoặc tiếp xúc với phân của người bệnh.
- Hoạt động tình dục bằng miệng có tiếp xúc với phân cũng có thể gây nhiễm bệnh. Người nhiễm bệnh có thể lây ký sinh trùng sang người khác ngay cả khi không có triệu chứng.
- Mọi lứa tuổi đều có thể bị nhiễm amip nhưng lứa tuổi mắc bệnh nhiều nhất là từ 20 đến 30 tuổi.
- Ngoài ra những yếu tố nguy cơ khác làm tăng khả năng mắc bệnh do amip là:
Phương pháp phòng bệnh amip chủ yếu là vệ sinh ăn uống, tránh để lây nhiễm kén amip vào thức ăn, nước uống:
+) Thực hiện ăn chín, uống sôi
+) Khi dùng rau quả tươi phải rửa sạch dưới vòi nước, phải khử trùng hoặc có xử lý bằng tia cực tím để diệt kén amip.
+) Không dùng thức ăn, thức uống từ những nguồn không rõ ràng.
+) Không uống nước chưa khử sạch từ sông, hồ hay suối. Nhiều loại viên lọc nước không thể diệt được loại ký sinh trùng này.
+) Uống nước hay sử dụng nước đá từ các nguồn sạch (như nước đóng chai). Không nên uống sữa hay ăn các sản phẩm bơ sữa chưa tiệt trùng, hoa quả chưa nấu (trừ khi có thể bóc vỏ), salad và rau sống.
+) Luôn rửa tay kỹ bằng nước và xà phòng trước khi ăn, trước khi nấu nướng, sau khi đi vệ sinh, sau khi thay tã hay sau khi giúp người khác đi vệ sinh.
+) Luôn sử dụng các biện pháp bảo vệ, như miếng bảo vệ răng miệng, khi có các hoạt động tình dục liên quan đến hậu môn chạm với miệng.
+) Xử lý phân hợp vệ sinh, tuyệt đối không dùng phân tươi bón rau quả. Vứt bỏ tất cả những thứ có thể đã dính phân.
+) Điều trị những người mang kén amip bằng metronidazol.
+) Tuyên truyền giáo dục vệ sinh an toàn thực phẩm.
Trên đây là tất cả những thông tin về bệnh áp xe gan do amip. Những thông tin này chỉ mang tính chất tham khảo, không dùng dể điều trị bệnh. Nếu bạn có các triệu chứng như kể ở trên hãy đến ngay các bệnh viện, phòng khám y tế để các bác sĩ chuẩn đoán và điều trị tốt nhất cho bạn.
>> Xem thêm: Áp xe gan là gì? Những biến chứng nguy hiểm của áp xe gan